Thursday, February 6, 2014
Đồng Kỵ: Xưa, nay
CôngThương - Quý hồ tinh bất quý hồ đa Không biết, cái tài hoa có mang yếu tố di truyền hay không, khi một đứa trẻ bé tý, sinh ra và lớn lên trong chiếc nôi của một làng nghề, ở độ tuổi nào, chúng cũng đều có thể dự vào một công đoạn nào đó, trong chu trình làm ra sản phẩm của người bản địa… Những đứa trẻ nít làng Đồng Kỵ cũng không ngoại lệ. Với nghề mộc, công việc đòi hỏi sự khéo và cũng không kém phần nặng nhọc, chúng cũng được góp phần: nhỏ thì đánh giấy nhám, đánh vec-ni, dầu bóng; ở tuổi “choai choai” thì bắt đầu tập tạc tay tràng, tay đục…; khi đã chớm nghề, được làm quen với những nét trạm trổ, ban đầu là những đường nét, họa tiết đơn giản, sau phức tạp dần, rồi đến tinh diệu… Cứ bền bỉ theo thời kì và đợi tuổi trời, những đứa trẻ cứ hồn nhiên tiếp nhận tinh hoa nghề của tiên sư đi trước, mà bỗng trở nên thợ cả, thợ chính… từ lúc nào không hay. Đấy là một câu chuyện, tưởng như khó hiểu, nhưng lại hoàn toàn logic, xét trên góc độ “con nhà tông…”. Đối với những người làm nghề liên can đến nhân tố thẩm mỹ, nghệ thuật, thì sản phẩm của họ làm ra, điều mong muốn trước tiên, đó là phải gặp được “người chơi”, hiểu được nó để từ đó mới sử dụng, khẩn hoang hết những giá trị mà người làm ra nó gửi gắm. Cũng như Bá Nha và Tử Kỳ, tiếng đàn là sợi dây kết nối mối thâm tình của họ. Các cao niên của làng nghề gỗ Đồng Kỵ kể rằng, người làng nghề Đồng Kỵ xưa, người ta không đặt lợi nhuận và giá trị kinh tế lên hàng đầu. Và khách chơi đồ Đồng Kỵ, cũng không phải “vơ bèo vạt tép”, ai cũng có cơ duyên mà được dùng đồ gỗ Đồng Kỵ trong nhà… Chơi gỗ Đồng Kỵ, ngoài cái duyên, chức vụ, ngoài những người thuộc từng lớp sỹ- phú, có vai vế trong từng lớp, những người dân nghèo không mấy ai có. Vì thế, đấy cũng là cách giảng giải, tại sao làng mộc Đồng Kỵ, từ khi khởi nghệ, các cụ đã bắt đầu bằng thứ hàng cao cấp, tức là đã có “ý đồ” manh nha “chọn thị trường cấp một” – nói theo ngôn ngữ hiện đại hiện. Người xưa “chơi” đồ Đồng Kỵ theo cách riêng của họ. Đối với những gia đình giáo học, nền nếp gia phong, trong ngôi nhà ngói 3 gian 2 chái, không thể thiếu những món đồ gỗ, nếu là Đồng Kỵ, thì chắc chắn phải có sập gụ, tủ chè, bộ đồ thờ bao gồm cả ngai thờ… Trong những món đồ ấy, có lẽ bộ đồ thờ là thứ độc nhất vô nhị có trổ họa tiết cổ kính. Còn lại, đều để nét mộc, thẳng tuột và giản dị. Cùng với đồ gỗ Đồng Kỵ, bên ngoài bậu vườn, có thêm mấy bụi hoa mộc thả hương thoang thoảng, làm dậy mùi ấm trà buổi sáng, bên chiếc sập gụ để chủ nhân đón một ngày mới, và nhắc mình giữ đúng lề lối, gia phong. Theo lời mời gọi hấp dẫn, tôi về Đồng Kỵ- ngôi làng cổ nức danh với “làng trăm nghề”… Trong hàng trăm “hoa tay” của những người nông dân hiền từ vùng đồng bằng Bắc bộ ấy, người ta hay nhắc đến nghề mộc nhiều hơn cả… “Chơi” đồ Đồng Ky ngày nay Thời nay, người ta chơi đồ Đồng Kỵ, hiếm người tả cái sang, bên cạnh cái “phú” của mình. Cơ chế thị trường đã thay đổi đa số dung mạo đời sống của số đông, mà có thể cương trực nói rằng, đó là những lớp người “giàu xổi”. Có tiền bạc rủng rỉnh, người ta mang đồ Đồng Kỵ về nhà dễ như lấy mớ rau, con cá ngoài chợ… Nhưng, kiến trúc bài trí những vật dụng ấy, thì rõ rãng chưa “sang”. Ở thời điểm Đông-Tây-Kim-Cổ giao thoa, phòng khách rộng bát ngát của nhà Tây, vừa cao vừa sâu chót vót, bộ đồ gỗ Đồng Kỵ dẫu có hoành tráng đến chừng nào thì vẫn như lọt thỏm. Theo nhu cầu của đời sống đương đại, mẫu mã của đồ gỗ Đồng Kỵ cũng không ngừng đổi thay về kiểu dáng và kích tấc. Những chạm trổ tinh hoa và khéo léo, phần lớn miêu tả cái “phú” của gia chủ mà không toát được cái tinh của sự sang. Bộ tràng kỷ sừng sững, đặt người xuống lọt thỏm như ngồi trên một chiếc xuồng. Với tay lấy một chén nước, phải nhoài người, “nhổm mông” một cách đầy khó khăn. Mẫu mã, nước sơn dẫu có theo thiên hướng giả cổ, đặt giữa những thiết bị đương đại của đời sống đương đại, theo lối sống phương Tây, cũng trở nên muôn phần cà nhắc. Tôi có một người bạn say mê kiến trúc của người Việt cổ, than phiền rằng, người Việt hiện tại có giàu mà chưa có sang. Giàu, ấy là do vật chất mang lại. Còn cái sang, ấy là do cốt cách và phong thái của con người mà có. Cũng vì niềm ham mê, anh đã làm khách không mời của không ít những ngôi nhà, mà theo anh, giúp ích cho việc nghiên cứu của anh. Đa số những ngôi nhà mà anh gõ cửa, đều có sự xộc xệch đến hài hước về cách bài trí. Sập gụ, tủ chè, tràng kỷ, gỗ lũa… đặt vô duyên giữa những thiết bị đương đại, giống như người ta mặc nhiều chiếc áo khác màu, khác mùa cùng một lúc. Vì sự tế nhị trong cách sống và trong công việc, anh không góp ý, chỉ lẳng lặng ghi nhận để đưa ra những kết luận mang tính chất nghiên cứu. “Giữa những ngôi nhà xây dựng theo kiến trúc kiểu Tây, cửa sổ mái vòm theo kiến trúc vòm của Pháp, chềnh ềnh một bộ tràng kỷ Đồng Kỵ trổ tinh hoa, quét dầu bóng nhoáng… Trên những chiếc ghế bố, ghế đại, chủ nhà đặt vào đó những chiếc đệm mút Hàn Quốc…” - anh cười, và phủi một cách đầy bất lực. Hàng ngàn người đã tìm về Đồng Kỵ. Hàng ngàn chuyến xe đã lũ lượt chở đồ Đồng Ky. Và cũng ngần ấy người mong muốn được sở hữu những tinh hoa khéo léo tích lũy ngàn năm của những người thợ tài ba đất Kinh Bắc ấy về đặt trong ngôi nhà của mình. Thế nhưng, có mấy ai hiểu được Đồng Ky, về một làng quê xưa, cũng thái hoà giữa vùng tam giác cửa ngõ của đất Kinh Bắc, đất Tràng An và đất Thổ bể dâu lái, rất mực tài ba nhưng cũng đầy “khó tính”, để phô hết được cái hồn hoa tay ngàn năm gửi gắm, trong từng nét chạm phượng múa, rồng bay… Châu Long PHẢN HỒI
Subscribe to:
Post Comments (Atom)
No comments:
Post a Comment