Top Google Việt Nam : Làm Biển Quảng Cáo, Mua Bán Ô Tô Cũ, Phong Thủy, Gitizen.info, Blog Thủ Thuật SEO

Wednesday, April 2, 2014

Vận dụng cách thiết kế câu hỏi đánh giá năng lực đọc hiểu của PISA vào môn Ngữ văn

thực hành nhiệm vụ đổi mới giáo dục phổ quát theo ý thức quyết nghị 29/NQ-TW, ngày 6/3/2014 Bộ GD&ĐT đã ban hành kế hoạch số 103/KH-BGDĐT về việc tổ chức hội thảo “Đổi mới kiểm tra, đánh giá chất lượng học tập môn Ngữ văn trong trường phổ thông”. Hội thảo nhằm nghiên cứu cơ sở lý luận và xây dựng kế hoạch khai triển việc đổi mới phương thức rà soát đánh giá kết quả học tập môn Ngữ văn ở trường phổ quát theo định hướng phát triển năng lực người học với cách thức xây dựng đề thi/rà soát và đáp án theo hướng mở; tích hợp kiến thức liên môn; giải quyết vấn đề thực tiễn. Để chuẩn bị cho Hội thảo (dự kiến được tổ chức tại Hà Nội trung tuần tháng 4/2014), báo Giáo dục và Thời đại giới thiệu một số bài luận bàn về vấn đề nêu trên. Xin mời các ý kiến bàn bạc, góp ý cho bài viết này gửi về các địa chỉ sau: nthoan@moet.Edu.Vn; ttkdung@moet.Edu.Vn; pthien@moet.Edu.Vn Trân trọng cảm ơn! Chương trình này có rất nhiều ưu việt. Ở tầm vĩ mô, nó giúp cho các quốc gia dự có cơ hội nhìn nhận một cách tương đối toàn diện về những kĩ năng căn bản, những năng lực cá nhân chủ nghĩa mà học trò phổ thông của quốc gia đó đạt được để điều chỉnh kịp thời các chính sách hiện hành cho ăn nhập hoặc xây dựng các chính sách mới nhằm phát triển giáo dục một cách bền vững. Mặt khác, kết quả đánh giá thông qua PISA cũng cho phép mỗi quốc gia có được những so sánh có tính chất tham khảo về chất lượng giáo dục của nước mình với những nước khác cùng tham gia. Ở tầm vi mô, PISA cung cấp những cứ giúp cho nhà trường nhận ra được những tác động hăng hái hoặc thụ động ảnh hưởng đến kết quả học tập của học trò. Từ đó nhà trường sẽ tìm ra các biện pháp để phát huy những nguyên tố hăng hái, hạn chế những nguyên tố bị động góp phần nâng cao chất lượng dạy học. Đối với đội ngũ tía, được tiếp cận với chương trình PISA giúp họ có cơ hội nâng cao năng lực về đánh giá học trò theo chuẩn quốc tế, từng bước hội nhập với quốc tế về đánh giá giáo dục. Trong phạm vi bài viết này chúng tôi tập kết làm rõ những ưu việt của PISA, từ đó đề xuất phương hướng áp dụng cách thiết kế câu hỏi đánh giá năng lực đọc hiểu của học trò trong dạy học môn Ngữ văn ở nhà trường phổ biến. 1. Những ưu việt của PISA trong đánh giá năng lực Đọc hiểu Có thể nói PISA đã biểu hiện một cách sâu sắc và rõ nét 3 đặc trưng căn bản của thiên hướng soát, đánh giá kết quả học tập theo hướng hiện đại. Trong đó đặc biệt chú ý tới việc phát triển năng lực của người học, xem đây là yếu tố then chốt và tuốt luốt những nguyên tố khác đều tụ hợp hướng đến giải quyết vấn đề này. Đặc trưng thứ nhất là đánh giá phát triển: Đánh giá phát triển giúp người dạy và người học nhận ra được hiệu quả của hoạt động giảng dạy cũng như hiệu quả thu nhận. Từ đó chỉ ra những việc cần tiếp chuyện thực hành để phát triển năng lực của người học theo mục tiêu đã đề ra. Đặc trưng này quan hoài đến hiệu quả của hoạt động giảng dạy trong việc phát triển khả năng của người học chứ không phải là việc chứng minh người học đã đạt được mức thành tích nào đó. Bám sát đặc trưng này, tinh thần thiết kế câu hỏi PISA tụ hợp đánh giá năng lực Đọc hiểu của học sinh, coi xét chừng độ “hiểu, dùng, đề đạt và kết liên các văn bản nhằm đạt được các mục tiêu cá nhân chủ nghĩa, phát triển tri thức và tiềm năng cá nhân, và tham gia vào từng lớp.” Như vậy, đích phát triển năng lực đọc hiểu cho người học không dừng lại ở nhiệm vụ trau dồi tri thức, rèn luyện kĩ năng để đọc tốt các loại văn bản mà còn dùng việc đọc hiểu vào nhiều mục đích khác nhau như: tương trợ việc thực hành các hoài vọng cá nhân chủ nghĩa, làm phong phú và mở rộng cuộc sống cá nhân chủ nghĩa, kiểm soát những nội dung đọc hiểu để dự vào từng lớp trên các mặt văn hóa, chính trị. Đặc trưng thứ hai là đánh giá thực tại : Đánh giá thực tiễn đề cao mục đích coi xét các năng lực mà người học cần có trong bối cảnh thực tế. Nó đòi hỏi người học phải biết ứng dụng các kĩ năng và tri thức được trang bị trong nhà trường để có thể tạo ra một sản phẩm hay vận dụng những tri thức, kĩ năng này để giải quyết những cảnh huống trong thực tế cuộc sống (ngoài trường học). Đối với PISA, rất nhiều câu hỏi thuộc lĩnh vực đọc hiểu quan tâm tới vấn đề người học làm điều gì đó từ những gì họ đã đọc (dùng những kiến thức, kĩ năng đọc hiểu như thế nào, để làm gì?). Với kho thông tin mà người đọc lĩnh hội được, với những kinh nghiệm đã tích lũy và niềm tin được gây dựng họ sẽ được đánh giá ở khả năng dùng/kết nối toàn bộ những thứ đó với cuộc sống bên ngoài. Đặc trưng thứ ba là đánh giá sáng tạo: Đánh giá sáng tạo thường được sử dụng nhằm tạo động cơ cho người học, giúp họ có bổn phận hơn đối với việc học của chính mình. Nó cũng khiến cho việc soát, đánh giá trở nên một bộ phận thường trực của kinh nghiệm học tập và gắn chặt với những hoạt động thực tại, cho phép nhận dạng và kích thích khả năng sáng tạo của học trò. Ở lĩnh vực Đọc hiểu, PISA luôn chú trọng để thiết kế nên những câu hỏi mở giúp học sinh có nhịp bộ lộ ý kiến và cách cảm nhận cá nhân chủ nghĩa dựa trên những thao tác lập luận chém, những minh chứng có sức thuyết phục. Những câu hỏi rà soát kiến thức thuần tuý hay sự ghi nhớ máy móc được khuyến cáo không dùng hoặc hạn chế tới mức thấp nhất. Trong số những câu hỏi thuộc lĩnh vực Đọc hiểu được OECD phát hành công cộng, chúng ta thấy rất rõ ý thức này. Chẳng hạn, học trò cần đọc 2 lá thư trình bày ý kiến khác nhau của hai người về Graffiti (một loại nghệ thuật - không cho phép, được người ta tự tiện vẽ/viết lên tường hoặc nhiều vị trí khác) để trả lời những câu hỏi như: Em đồng ý với lá thư nào? Tại sao? Hay: Theo em, lá thư nào tốt hơn? Hãy giảng giải câu trả lời của em về cách thức của một hoặc cả hai lá thư được viết. Những câu hỏi này không chỉ đánh giá được mức độ hiểu văn bản của học trò mà còn giúp cho họ được bộc bạch quan điểm, nghĩ suy cá nhân, đưa ra cách đánh giá của riêng họ về vấn đề cần bàn thảo. Mỗi học sinh có thể đưa ra những câu trả lời khác nhau miễn là tả được quan điểm của bản thân cùng với cách lập luận thuyết phục và minh chứng tin tưởng. Kiến thức từ văn bản Đọc hiểu rất gần gụi, thiết thực, cung cấp cho học trò cách mong đánh giá khác nhau về Graffiti; từ đó các em có thể tự rút ra cách xử sự thấu tình đạt lí, điều chỉnh hành động của bản thân một cách hạp về hiện tượng này. Chức năng giáo dục được chuyển hóa trong văn bản đọc hiểu nên mà trở nên linh hoạt, uyển chuyển, có sức tác động lớn với học trò. Hay một văn bản khác mang tên ăn hiếp bạn bè cũng đặt ra được những câu hỏi có sức khơi gợi rất lớn. Tỉ dụ: Tỉ lệ giáo viên ở mỗi cấp học không biết về học trò của mình đang bị bắt nạt? Hay: vì sao bài báo lại đề cập tới cái chết của Kiyoteru Okouchi? (nhân vật chính của bài báo đã phải tự sát vì bị bắt nạt). Những câu hỏi này bên cạnh việc thực hiện tốt sứ mệnh có thuộc tính chuyên môn của nó (đánh giá năng lực đọc hiểu của học trò) còn có ý nghĩa giáo dục về những vấn đề đáng báo động (sự thiếu quan tâm của cha; bạo lực trong nhà trường; phản ứng thụ động của học sinh khi bị ăn hiếp…). Vấn đề được nêu trong văn bản và cả những câu hỏi đều có sức cuốn hút với học sinh bởi sự gần gũi, dễ hiểu, tính thiết thực, bổ ích. Điểm mới của PISA còn biểu hiện ở cách mã hóa/chỉ dẫn chấm các câu đáp của học sinh. Trong lĩnh vực Đọc hiểu, PISA quy ước dùng các chữ số 0 - 1 - 9 hoặc 0 - 1 - 2 - 9 để đánh giá các mức độ đạt yêu cầu của mỗi câu đáp. Trong đó mức tối đa của câu hỏi sẽ là 1 (đối với câu hỏi có 3 mã 0 - 1 - 9) hoặc là 2 (đối với câu hỏi có 4 mã 0 - 1 - 2 - 9). Để đạt mức tối đa câu giải đáp của học trò hoàn toàn thỏa mãn với những đề nghị mà câu hỏi đặt ra được biểu thị trong phần thể hiện chung. Mức chưa tối đa là cách đánh giá những câu giải đáp thỏa mãn một phần yêu cầu của câu hỏi mà người thiết kế thấy cần phải ghi nhận những cụ của người làm bài. Mức không đạt có hai mã, mã 0 dành cho học trò có làm bài nhưng đó là những câu đáp sai/không đạt yêu cầu, mã 9 dành cho học sinh không làm bài để giấy trắng/hoặc không có dấu hiệu thực hiện bất cứ một hành động nào để giải quyết yêu cầu của bài tập. Khi quy về điểm số thì mã 0 và mã 9 là tương đương nhau nhưng hai mã này giúp cho xuân đường phân biệt được năng lực và thái độ của học trò. Những câu giải đáp mã 0 mô tả học sinh có chũm trong việc giải quyết đề nghị của câu hỏi, bài tập nhưng do hiểu sai nên làm bài sai, càn sẽ thấy được “vấn đề” để tìm cách xử lí. Những câu trả lời mã 9 trình bày hoặc là học trò không muốn/không thích/ không hiệp tác trong việc thực hành đề nghị của câu hỏi bài tập hoặc là không hề biết gì về vấn đề đó. Đối với những trường hợp này, phụ thân sẽ có cách giải quyết/xử sự hoàn toàn khác với trường hợp mã 0. Trong khi thiết kế câu hỏi môn Ngữ văn, chúng ta hoàn toàn có thể vận dụng quy ước này để đánh giá phần đáp của học trò bằng cách dùng các mã 0 và 9 đối với những câu hỏi không đạt đề nghị theo đúng ý thức PISA. Các mã tối đa hoặc chưa tối đa chúng ta có thể quy ước thẳng là điểm số. Ví dụ câu hỏi 2 điểm sẽ có mã tối đa là 2 (điểm 2), mã chưa tối đa là 1 (điểm 1). Các câu nhiều điểm hơn chúng ta làm na ná, điểm cao nhất cũng là mã tối đa và các mã chưa tối đa sẽ thấp dần. Tuy nhiên, theo khuyến cáo của các chuyên gia phân tích và xử lí số liệu, khi đánh giá kết quả học tập chúng ta nên sử dụng điểm là những số nguyên (không dùng điểm lẻ); với câu hỏi tự luận của môn Ngữ văn nên tách ra các điểm thành phần (tối đa là 4 - 5 điểm) để thuận lợi trong quá trình phân tách, kiểm soát dữ liệu. 2. Phương hướng áp dụng cách thiết kế câu hỏi đánh giá năng lực đọc hiểu của học trò trong dạy học môn Ngữ văn ở nhà trường phổ quát. Ứng dụng cách đánh giá của PISA, trong khi thiết kế câu hỏi để đánh giá năng lực đọc hiểu của học sinh ở môn Ngữ văn cần lưu ý những vấn đề sau: Thứ nhất, cần chú trọng tới việc đánh giá năng lực đọc hiểu của học trò chứ không phải chỉ là kiến thức hay kĩ năng đọc hiểu . Điều này có nghĩa với những tri thức, kĩ năng đọc hiểu được cung cấp, học sinh sẽ vận dụng như thế nào để giải quyết các vấn đề đặt ra trong thực tiễn cuộc sống. Các câu hỏi đánh giá thành thử cần tính đến môi trường tồn tại thực hoặc giả thiết nhưng phải có lí, phải ưng được. Các văn bản/ngữ liệu dùng để đọc hiểu có thể là những văn bản thân thuộc, đã được học cũng có thể là những văn bản mới (có tính chất tương đương về kiểu loại, hiệp, thiết thực với người đọc…) để học sinh có thời cơ vận dụng kiến thức kĩ năng đọc hiểu của bản thân để xử lí các yêu cầu cụ thể của câu hỏi. Thứ hai, cần chú trọng tới việc phát huy tính tích cực, chủ động sáng tạo của người đọc hạn chế tối đa những câu hỏi chỉ soát kiến thức thuần tuý hay sự ghi nhớ máy móc. Nếu muốn rà việc nắm vững khái niệm có thuộc tính quan trọng cũng nên thiết kế dưới dạng những câu hỏi cần ứng dụng khái niệm đó để giải quyết vấn đề. Cha nên đầu tư để xây dựng được kiểu câu hỏi mà học trò có thể đưa ra những ý kiến khác nhau, thậm chí trái ngược nhau và biết cách lập luận để bảo vệ ý kiến của mình. Những kiểu câu hỏi này sẽ kích thích các em phát triển tư duy phản biện, góp phần khắc phục hạn chế đáng tiếc của học sinh Việt Nam hiện thời. Đối với môn Ngữ văn, khi thầy giáo thiết kế được những câu hỏi có sự nối kết giữa vấn đề đặt ra trong văn bản với thực tại cuộc sống cũng sẽ giúp cho học sinh có nhịp ứng dụng những trải nghiệm của bản thân để giải quyết các nhiệm vụ học tập. Điều này vừa có tác dụng khuyến khích học sinh chủ động tích lũy kinh nghiệm sống, vừa giúp cho môn Ngữ văn gần hơn, gắn bó hơn với thế cuộc. Thứ ba, cần chú trọng tới tính đa dạng của các kiểu loại văn bản được dùng làm ngữ liệu để soát năng lực đọc hiểu của học sinh. Thực tế cho thấy, bên cạnh việc sử dụng ngữ liệu đánh giá năng lực đọc hiểu là những văn bản văn học huých quyến rũ và tiềm tàng nhiều giá trị, cũng rất cần chú ý tới những văn bản thông báo có tác dụng làm phong phú và mở mang cuộc sống cá nhân, cung cấp những kiến thức hữu dụng, phù hợp với tâm lí lứa tuổi, cập nhật được những vấn đề có ý nghĩa giáo dục, ý nghĩa từng lớp sâu sắc. Khi mà người đọc có tinh thần trong việc kiểm soát những nội dung đọc hiểu để tham dự vào xã hội trên các mặt văn hóa, chính trị … thì ý nghĩa, tác dụng của đọc hiểu càng được mở mang. Những ưu việt của PISA là rất rõ và có sức thuyết phục với đông đảo giới nghiên cứu, hàng ngũ thân phụ và cả học trò. Tuy nhiên áp dụng cách đánh giá của PISA để thiết kế câu hỏi đánh giá năng lực Đọc hiểu của học trò trong dạy học Ngữ văn là cả một quá trình lâu dài, khó khăn, cần được thực hiện từng bước. THIẾT KẾ CÂU HỎI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐỌC HIỂU CỦA HS Trên cơ sở ứng dụng tinh thần của PISA, chúng tôi dùng văn bản văn chương “Muốn làm thằng Cuội”để thiết kế minh họa một số câu hỏi đánh giá năng lực đọc hiểu của học trò như sau: Đọc kĩ bài thơ “Muốn làm thằng Cuội” và đáp các câu hỏi: Đêm thu buồn lắm, chị Hằng ơi! dương thế em nay chán nửa rồi tiêu phòng đã ai ngồi đó chửa? Cành đa xin chị nhắc lên chơi Có bầu có bạn can chi tủi, Cùng gió cùng mây thế mới vui Rồi cứ mỗi năm rằm tháng tám Tựa nhau trông xuống dương gian cười (Ngữ văn 8, Tập 1,NXB Giáo dục 2013) Câu hỏi 1 tại sao nhân vật “em” trong bài thơ Muốn làm thằng Cuội lại có tâm trạng buồn và chán ? A. Vì cảnh đêm thu giá lạnh cô đơn gợi nỗi buồn sâu thẳm trong lọ̀ng nhân vật. B. Vì khát vọng (muốn lên cung trăng chơi) không bao giờ thực hiện được. C. Vì chị Hằng người bạn thân với nhân vật em nay đã ở một nơi rất xa. D. Vì cảm thấy chán nản, hoài nghi cuộc sống đáng buồn ở nơi trần thế. MUỐN LÀM THẰNG CUỘI: chỉ dẫn mã hóa câu hỏi 1 Mục đích của câu hỏi: Hiểu được tâm cảnh của nhân vật trữ tình trong bài thơ. Mức tối đa: Mã 1: Đáp án đúng D/Vì cảm thấy chán nản, hồ nghi cuộc sống đáng buồn ở nơi người đời. Mức không đạt Mã 0: chọn lựa các phương án khác (A,B,C)/Là những phương án nhiễu/sai. Mã 9: Không giải đáp/học sinh không làm bài. Câu hỏi 2 Từ “ Cung quế” trong bài thơ được hiểu với nghĩa nào sau đây? · Cung trăng (nơi đó có cây quế) · Cung cấm (nơi ở của chị Hằng) · Gốc cây đa (nơi chú Cuội ngồi) · Cung vua (nơi ở của Ngọc Hoàng) MUỐN LÀM THẰNG CUỘI: chỉ dẫn mã hóa câu hỏi 2 Mục đích của câu hỏi: Hiểu được ý nghĩa từ ngữ được dùng trong bài thơ. Mức tối đa: Mã 1: Đáp án đúng A/ Cung trăng (nơi đó có cây quế). Mức không đạt Mã 0: chọn lọc các phương án khác (B,C,D)/ Là những phương án nhiễu/sai. Mã 9: Không đáp/ học sinh không làm bài. Câu hỏi 3 Hãy cho biết các nhận định sau về ý nghĩa cái cười trong hai câu thơ cuối của bài thơ Muốn làm thằng Cuội là ĐÚNG hay SAI? Đúng khoanh vào Đ, sai khoanh vào S. STT Ý nghĩa cái c ười Đúng/Sai 1 thể hiện niềm vui sướng của nhà thơ trước tự nhiên tươi đẹp Đ - S 2 Cho thấy thái độ bất hòa của tác giả đối với cuộc sống thực tiễn Đ - S 3 Khẳng định niềm vui về một cuộc sống tự do đầy ảo mộng Đ - S 4 diễn đạt vẻ đẹp của tâm hồn thơ lãng mạng pha chút nghênh ngang Đ - S MUỐN LÀM THẰNG CUỘI: H ướng dẫn m ã hóa câu hỏi 3 Mục đích của câu hỏi: Nhận ra được ý nghĩa của một hình ảnh đặc sắc trong văn bản. Các phương án đúng sẽ là: 1. Sai; 2. Đúng; 3. Đúng; 4. Đúng Mức tối đa Mã 2: Khoanh đúng từ 3 đến 4 đáp án. Mức không tối đa: Mã 1: Khoanh đúng 2 đáp án. Mức không đạt: Mã 0: Khoanh đúng 1 đáp án hoặc không khoanh đúng đáp án nào. Mã 9: Không đáp/ học trò không làm bài. Câu hỏi 4 Vì sao nói bài thơ Muốn làm thằng Cuội (Tản Đà) đã miêu tả rõ những tìm tòi đổi mới so với thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật cổ điển? Em hãy đưa ra 2 lí do. ……………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………… MUỐN LÀM THẰNG CUỘI: Hướng dẫn mã hóa câu hỏi 4 Mục đích của câu hỏi: giải thích được nét đặc sắc về nghệ thuật của văn bản. Mức tối đa: Mã 2: học trò lập luận logic, biểu thị mạch lạc và đưa ra được 2 trong những lí do sau ở câu trả lời: hồn thơ, tứ thơ, hình ảnh, ngôn ngữ. + Hồn thơ lãng mạn, bay bổng pha chút nghênh ngang, kiêu bạc bộc lộ rõ cái tôi cá nhân chủ nghĩa của Tản Đà; ngôn ngữ: trong sáng, bình dị, gần gụi, có giá trị biểu cảm cao (buồn lắm, chán nửa rồi, xin chị, can chi, thế mới....) + Tứ thơ: lạ, hóm hỉnh, biểu lộ được chiều sâu ý nghĩa: tấm lòng của tác giả với cuộc đời (khác với vẻ đẹp ước lệ, biểu tượng của thơ ca cổ); hình ảnh thơ: độc đáo, sáng tạo, có sức khêu gợi (vượt ra khỏi thế giới của những hình ảnh có ý nghĩa biểu trưng quen thuộc trong thơ Đường). … Mức chưa tối đa Mã 1: học trò nêu được một trong 2 lí do đã đề cập ở trên. Mức không đạt Mã 0: Các câu giải đáp chung chung, mơ hồ, lạc đề, không đúng yêu cầu câu hỏi. Tỉ dụ: Bài thơ đã có những tìm tòi đổi mới thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật cổ điển của tác giả. Bài thơ rất hay, khác hẳn những bài thơ thất ngôn bát cú khác. Bài thơ được làm theo thể thất ngôn bát cú. … Mã 9: Không đáp/ học sinh không làm bài. Câu hỏi 5 Nhân vật em trong bài thơ muốn rời xa cuộc sống thực tiễn để vơi bớt đi những buồn phiền, sầu muộn trong lòng. Em có đồng ý với cách giải quyết đó không? Vì sao? ……………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………… MUỐN LÀM THẰNG CUỘI: Hướng dẫn mã hóa câu hỏi 5 Mục đích của câu hỏi: Phản hồi, đánh giá bằng cách kết nối được những vấn đề đặt ra trong văn bản và thực tiễn cuộc sống. Mức tối đa: Mã 2: học sinh đưa ra được ý kiến; lập luận logic, biểu hiện mạch lạc; có sức thuyết phục (biết đặt vào từng cảnh ngộ từng lớp cụ thể để lí giải). + Không đồng ý, vì đó chỉ là những ý tưởng viển vông, không có trong thực tiễn; không cải tạo được tình cảnh. + Có thể hài lòng được, vì trong tầng lớp thời bấy giờ những trí thức như nhà thơ khó có thể làm được điều gì hơn. + Có thể ưng được, khi người ta biết rõ mình chẳng thể làm gì khác; mơ ước cũng hữu dụng lợi nhất quyết. + Rất khó để có được quan điểm rõ ràng, phải tùy thuộc vào cảnh ngộ cụ thể, phải biết người đó như thế nào mới đánh giá được cách chọn lọc của họ. … Mức chưa tối đa: Mã 1: học trò đưa ra được ý kiến; lập luận logic, trình bày tương đối rõ ràng; có thể chấp nhận được. + Không đồng ý, vì những kiểu mơ ước như vậy chẳng giải quyết được gì. + Đồng ý, vì đôi lúc ước mơ cũng giúp người ta đỡ buồn. + Rất khó nói, vì còn tùy thuộc vào nhiều nguyên tố khách quan hoặc chủ quan. … Mức không đạt: Mã 0: Các câu trả lời chỉ nêu quan điểm mà không giảng giải; mơ hồ, chung chung; không đúng yêu cầu câu hỏi. · Em không đồng ý. · Em cũng có những mong ước như vậy. · Mơ ước thật thú vị. · … Mã 9: Không đáp/ học sinh không làm bài.

No comments:

Post a Comment