Top Google Việt Nam : Làm Biển Quảng Cáo, Mua Bán Ô Tô Cũ, Phong Thủy, Gitizen.info, Blog Thủ Thuật SEO

Thursday, January 30, 2014

Thành công từ góc nhìn đa chiều

thực hiện thành công mục tiêu cao nhất đích kinh tế vĩ mô về mặt lý thuyết và thực tiễn là mục tiêu cao nhất của chính sách tiền tệ (CSTT). Có thể khẳng định, trong năm 2013, đây là thành công trước hết và thấy rõ nhất đó là ổn định tiền tệ, trên cả hai góc độ: ổn định giá trị đối nội, nghĩa là kìm giữ chỉ số CPI (thường được coi là lạm phát); ổn định giá trị đối ngoại, tức là tỷ giá. Thành công tiếp theo là tương trợ tăng trưởng kinh tế ở mức hợp lý; Và cuối cùng là góp phần giải quyết an sinh tầng lớp, góp phần tạo việc làm cho người cần lao, xóa đói giảm nghèo, đáp ứng vốn tín dụng nhà băng cho các chương trình chính sách... Đích kềm chế lạm phát ở mức 7% cả năm 2013 rõràng là đạt được thành công ngoài dự định. CSTT cũng hỗ trợ tăng trưởng kinh tế hợp lý, GDP tăng 5,42%; góp phần đảm bảo an sinh xã hội. Ổn định thị trường vàng Trong năm 2013, ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã quyết liệt triển khai các giải pháp đồng bộ về quản lý thị trường vàng. Theo đó, các tổ chức tín dụng (TCTD) thực hiện tất toán tất thảy số dư huy động vốn bằng vàng đến hạn phải chi trả từ đầu tháng 7/2013; giảm dần số dư cho vay vốn bằng vàng nên đã loại bỏ tất cả rủi ro liên can đến vàng và chấm dứt tình trạng “vàng hóa” trong hoạt động của TCTD. Cùng với đó, NHNN đã tăng cường công tác thanh tra, giám sát chặt đẹp hoạt động của các TCTD, DN kinh doanh mua, bán vàng, bình ổn thị trường duyệt đấu thầu vàng, sinh sản vàng miếng SJC để đáp ứng nhu cầu thị trường, thiết lập một màng lưới mua, bán vàng miếng mới, có tổ chức, quản lý chặt đẹp tạo điều kiện thuận lợi cho người dân tiếp cận mua, bán vàng. Thực hiện thắng lợi mục tiêu trung gian Lãi suất tiền gửi và cho vay giảm dần: Trong năm 2013, mặt bằng lãi suất giảm về bằng lãi suất của của gần 10 năm trước, xoay quanh mức 6-8%/năm đối với lãi suất huy động và 8-11%/năm đối với lãi suất cho vay. Lãi suất tiền gửi USD cũng giảm mạnh, xoay quanh mức dưới 2%/năm và lãi suất cho vay USD cũng về mặt bằng trước đây, phù hợp với đích điều hành CSTT của NHNN Tỷ gi á diễn bi ế n ổn đ ị nh: Trong năm 2013, tỷ giá VND/USD tăng 1,2% so với năm 2012. Thị trường ngoại hối về căn bản ổn định, thanh khoản ngoại tệ của hệ thống ngân hàng được cải thiện rõrệt so với một số năm gần đây. Đến cuối năm 2013, tỷ lệ gửi ngoại tệ so với tổng phương tiện thanh toán nối giảm, còn khoảng 12% (so với mức cuối năm 2011 đang là 15,8%, cuối năm 2012 đang là 12,36%). Dự trữ ngoại hối Nhà nước tăng gấp hơn hai lần so với cuối năm 2011. Giao hội giải quy ế t nợ xấu c ủ a hệ thống: Trong năm 2013, hệ thống nhà băng thực hiện đồng bộ và tổng hợp nhiều giải pháp xử lý nợ xấu. Ước lượng số nợ xấu đã được xử lý trong năm 2012 và năm 2013 đạt khoảng 110.000 tỷ đồng. Chính thức bắt đầu mua nợ xấu từ 1/10/2013, đến cuối năm 2013, Công ty quản lý tài sản (VAMC) đã xử lý được gần 30.000 tỷ đồng dư nợ gốc của 26 tổ chức tín dụng. Các TCTD đã cơ cấu lại và giữ nguyên nhóm nợ đến hết tháng 12/2013 cũng khoảng 316.800 tỷ đồng nợ cho khách hàng, chiếm hơn 10% tổng dư nợ tín dụng. Trong đó có 60% các khoản vay nếu không được cơ cấu đã thành nợ xấu. Nói một cách khác, nếu không làm, nợ xấu của hệ thống đã tăng thêm 6%. T á i cơ cấu c á c TCTD theo đúng lịch trình: Tính đến hết năm 2013, đã có 8 trong tổng số 9 nhà băng thương mại cổ phần (NHTMCP) thuộc diện yếu kém đã hoàn tất bước đầu lộ trình tái cơ cấu. Phương án cơ cấu lại của 8/9 nhà băng đều được tiến hành trên nguyên tắc tình nguyện, NHNN chưa phải vận dụng biện pháp can thiệp bức nào. Đến hết năm 2013, sau gần 2 năm tái cơ cấu ưng chuẩn sáp nhập, thống nhất, giải tán, hệ thống đã giảm 6 TCTD, bao gồm: 4 NHTMCP và 2 TCTD phi nhà băng. Ho ạ t động c ủ a c á c TCTD ổn đ ị nh: Lợi nhuận của toàn hệ thống các TCTD lũy kế đến hết tháng 11/2013 đạt 29.500 tỷ đồng, tăng 3,2% so với năm 2012. Tuy nhiên, nếu so sánh với các năm 2010, 2011, thì lợi nhuận lũy kế năm 2013 chỉ bằng 53-64%. Đặc biệt, có tới 17% các TCTD lỗ trong năm 2013 (bên cạnh 100 TCTD có lãi). Nhìn chung, trên 50% số TCTD trong năm 2013 giảm lợi nhuận so với năm 2012. Tình hình đó phản ánh sát thực tiễn môi trường hoạt động kinh doanh nhà băng trong năm 2013. Đó là các TCTD phải trích lập ngừa rủi ro tăng lên nên dẫn đến lợi nhuận giảm hoặc thua lỗ; do giảm lãi suất cho vay đối với khách hàng trong khi vẫn phải trả lãi tiền gửi cao cho khách hàng nên thu nhập giảm. Đó là chưa kể tuốt các NHTM đều tiết giảm phí, giảm chi lương và chi thường, thu hẹp các phòng giao tế và chi nhánh hoạt động thua lỗ… Mặc dù vậy, năm 2013 cũng đánh dấu năng lực tài chính của cả hệ thống các TCTD được nâng cao. Tính chung, trong 11 tháng đầu năm 2013, vốn điều lệ của toàn hệ thống các TCTD tăng 6,65% so với cuối năm 2012, tương đương với mức tăng 25.800 tỷ đồng, vốn chủ sở hữu tăng thêm 43.500 tỷ đồng. Đến cuối năm 2013, một số hệ số phản ảnh hiệu quả kinh doanh ROA, ROE cũng chưa được cải thiện, đều giảm so với năm ngoái khi chỉ đạt lần lượt 0,53% và 5,6%. Kết quả đích hoạt động Lãi suất trên thị trường liên ngân hàng đối với VND năm 2012 nếu còn ở mức 18 – 22%/năm cho hầu hết các kỳ hạn thì từ năm 2013 (đặc biệt về cuối năm) đã có thiên hướng giảm. Giữa năm 2013, giao du qua đêm nghiêng ngả quanh mức 4%/năm nhưng đến cuối năm giảm còn 2,5 – 2,8%/năm. Rưa rứa, lãi suất ngoại tệ cũng ổn định trong phạm vi điều hành CSTT của NHNN. Thanh khoản của nhiều NHTM từ mức khủng hoảng đã ổn định trong năm 2013. Các chỉ tiêu chủ yếu hoạt động ngân hàng có mức tăng trưởng khá. Ước tính đến hết năm 2013, tổng nguồn vốn huy động của các TCTD tăng khoảng 16% so với cuối năm 2012, tổng dư nợ cho vay Ước tính tăng 9% so với đầu năm. Các DN, khách hàng nói chung không còn than phiền, phàn nàn về lãi suất vay vốn nhiều như trước đây. Tổng công cụ thanh toán tiếp kiến tăng ở mức hiệp với đích định hướng 14-16% đặt ra từ đầu năm, đến hết năm 2013, Ước tính tăng 15% so với cuối năm 2012; huy động vốn tăng 15,61%, trong đó bằng ngoại tệ tăng 13,7%, bằng VND tăng khá cao 15,93% so với cuối năm 2012. Các đích kinh tế vĩ mô khác Điều hành CSTT và hoạt động nhà băng đã góp phần quan trọng đạt được các mục tiêu kinh tễ vĩ mô khác: Nhập siêu đã giảm: Giảm nhập siêu không phải là mục tiêu trực tiếp của CSTT nhưng phải thực sự dìm, nhập siêu trong 3 năm gần đây giảm mạnh có căn nguyên hàng đầu là điều hành tỷ giá, lãi suất ngoại tệ và thực thi các biện pháp quản lý ngoại tệ, quản lý thị trường vàng có hiệu quả. Tăng cường quỹ d ự trữ ngo ạ i tệ nhà nước gắn liền v ớ i việc trung hòa lượng nội tệ đưa ra mua USD: Tỷ giá ổn định, nhập siêu giảm mạnh, cần phải phân tách trong bối cảnh quỹ dự trữ ngoại tệ nhà nước được tăng cường, từ mức 7 tỷ USD lên khoảng 32 tỷ USD giờ. Việc mua ngoại tệ vào đồng nghĩa với việc cung ứng VND ra lưu thông nhưng gây nên lạm phát tiền tệ. Thực tế này hoàn toàn được lý giải qua sự phối hợp đồng bộ các dụng cụ của CSTT mà trọng tâm trong vấn đề này đó là nghiệp vụ thị trường mở, trung hòa lượng tiền cung ứng qua kênh mua ngoại tệ. Giảm tình tr ạ ng đô la hóa trong nền kinh t ế : Tỷ giá ổn định đã tác động hăng hái đến tâm lý của người dân, tâm lý của thị trường tài chính. Người dân, giới đầu tư tin tức vào sự ổn định của VND. Điều này làm giảm hẳn tình trạng người dân chọn lựa việc cất trữ tài sản của mình bằng việc mua ngoại tệ, góp phần đẩy lùi tình trạng đô la hóa trong xã hội. Ước lượng hết năm 2013, tổng tiền gửi ngoại tệ trên tổng tiền gửi của các TCTD giảm xuống dưới 12%. Vốn t í n dụng nhà băng góp phần t á i cơ cấu nền kinh t ế hư ớ ng vào c á c lĩnh v ự c ưu tiên: Để bảo đảm an toàn hoạt động nhà băng và thực hành Nghị quyết 11 của Chính phủ, các NHTM đều điều chỉnh phần nhiều tăng trưởng tín dụng trong các năm 2011-2013 sang hội tụ cho sản xuất, khu vực nông nghiệp - nông thôn, sản xuất và thu mua hàng xuất khẩu, công nghiệp hỗ trợ và DN nhỏ và vừa, với kỳ vọng sẽ góp phần rất lớn vào tăng trưởng, tạo ra nhiều sản phẩm hàng hóa cho thị trường trong nước cũng như xuất khẩu. Thách thức và khuyến nghị cho thời gian tới Một là, áp lực phá giá VND là rất lớn và từ nhiều phía khác nhau, vì vậy cần kiên trì đích ổn định tỷ giá VND/USD trong một giới hạn một mực (nếu có biến động thì cả năm 2014 – 2015 không vượt quá 1-2% mỗi năm). Theo đó, các công cụ điều hành CSTT, trực tiếp là: lãi suất, dự trữ tấm, thị trường mở, chính sách và biện pháp quản lý thị trường ngoại tệ cũng theo hướng thực hành đích này. Hai là, sức ép về tăng trưởng dư nợ đối với nền kinh tế là rất lớn, trong khi điều kiện mở rộng tín dụng an toàn, hiệu quả vẫn diễn biến chậm, cho nên chỉ tiêu tăng trưởng dư nợ tín dụng nhà băng năm 2014 – 2015 đối với nền kinh tế chỉ nên coi là có thuộc tính định hướng, chứ không cứng nhắc phải phấn đấu bằng mọi cách để đảm bảo tăng trưởng tín dụng theo mục tiêu đề ra hay khống chế mức tăng trưởng tín dụng. Năm 2014, mức tăng trưởng tín dụng được NHNN đưa ra là 12%, tổng phương tiện thanh toán tăng khoảng 16-18% so với năm trước. Vấn đề quan yếu là NHNN thực hành các biện pháp quản lý, giám sát chém bảo đảm tín dụng tăng trưởng an toàn, hiệu quả theo nhu cầu vốn nền kinh tế. Bên cạnh đó, các dụng cụ điều hành CSTT, đặc biệt là lãi suất, cho vay tái cấp vốn, dự trữ buộc... Vẫn cần định hướng các TCTD vào việc mở mang tín dụng đối với 5 đối tượng ưu tiên, xúc tiến cạnh tranh mở rộng tín dụng nông nghiệp – nông thôn. Ba là, trong điều kiện lãi suất cơ bản chưa phát huy vai trò điều tiết gián tiếp thị trường tiền tệ thì việc duy trì quy định trần lãi suất tiền gửi và lãi suất cho vay 5 đối tượng ưu tiên là vô cùng cấp thiết, ít nhất là cần duy trì hết 6 tháng đầu năm 2014 nhằm phát đi tín hiệu thực thụ về lãi suất trên thị trường. Bốn là, diễn biến CPI trong các năm 2014- 2015 dự báo vẫn có các căn do như các năm qua. Trách nhiệm về kiềm chế lạm phát vẫn được dổ dồn lên CSTT, cho nên, công tác điều hành CSTT cần chủ động, linh hoạt hơn; tăng cường hiệu quả, chất lượng công tác thanh tra giám sát... Mặt khác, cần yêu cầu và chủ động kết hợp với các chính sách kinh tế vĩ mô khác. Năm là, dùng biện pháp truyền thống đó là tăng lãi suất, rút bớt tiền từ lưu thông về để kìm giữ lạm phát không còn hoàn toàn ăn nhập với thực tiễn Việt Nam, thực tiễn hoạt động nhà băng. Lạm phát không phải là nguyên do độc nhất, không phải lúc nào cũng do tiền tệ. Tăng lãi suất, rút bớt tiền từ lưu thông về, gây thiếu hụt thanh khoản, càng đẩy lãi suất trên thị trường tăng cao, tác động ngược lại mục tiêu kềm chế lạm phát. Sáu là, tái cơ cấu nền kinh tế nói chung, tái cơ cấu các Tập đoàn, Tổng công ty quốc gia tiếp diễn ra chưa đạt hiệu quả và đích như mong muốn, ảnh hưởng lớn đến hoạt động tín dụng nhà băng, đến điều hành CSTT. Vì thế, trong điều hành CSTT và quản lý chất lượng tín dụng cần có phương án cụ thể về những tác động này. Những thách thức đối với việc điều hành CSTT trong 2 năm tiếp theo 2014-2015 là không hề nhỏ. Do vậy, việc ngóng lại một số bài học kinh nghiệm thời kì qua, trên cơ sở những dự báo và chủ động có những giải pháp thích hợp để đạt được các đích dự định cho thời kì tới là khôn xiết cần thiết. Tài liệu tham khảo: 1. Cổng thông tin điện tử của ngân hàng Nhà nước; 2. Cổng thông tin điện tử của Tổng cục Thống kê; 3. Website của ngân hàng Ngoại thương Việt Nam. Bài đăng trên tập san Tài chính số 1 - 2014

No comments:

Post a Comment